Hê-bơ-rơ 11

522 views

Đoạn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | Phần Giới Thiệu

Đoạn 11

1 Đức tin là nền tảng của những điều đang trông mong là bằng cớ của những điều chẳng xem thấy.
2 Vì trong nó mà các trưởng lão đã được lời chứng tốt.
3 Bởi đức tin, chúng ta hiểu rằng, các thế giới đã được thiết lập bởi tiếng phán của Thiên Chúa. Những vật được nhìn thấy chẳng phải đã hình thành từ những vật thấy được.
4 Bởi đức tin, A-bên đã dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế tốt hơn của Ca-in. Bởi đó ông đã được làm chứng là công chính, qua s Đức Chúa Trời làm chứng về lễ vật của ông. Cũng nhờ đó dù đã chết ông vẫn còn nói.
5 Bởi đức tin, Hê-nóc đã được biến hóa, không thấy sự chết. Ông không được tìm thấy nữa, vì Đức Chúa Trời đã biến hóa ông. Vì trước khi sự biến hóa xảy ra, ông đã được chứng rằng, ông đã vừa lòng Đức Chúa Trời.
6 Không có đức tin thì không thể nào làm vừa lòng Ngài. Vì người đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng, Ngài thực hữu. Đối với những ai tìm kiếm Ngài, Ngài là Đấng Ban Thưởng.
7 Bởi đức tin, Nô-ê được Thần khải về những việc chưa thấy. Ông kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó ông đã định tội thế gian, và trở nên người kế tự của sự công chính bởi đức tin. [Thần khải = được Chúa báo cho biết.]
8 Bởi đức tin, Áp-ra-ham khi được kêu gọi ra đi để đến một nơi mà ông sẽ nhận làm cơ nghiệp, thì ông đã vâng lời, ra đi không biết mình đi đâu.
9 Bởi đức tin, ông đã kiều ngụ trong vùng đất hứa như đất ngoại quốc, ở trong các lều trại với I-sác và Gia-cốp, các người đồng kế tự một lời hứa với ông.
10 Vì ông chờ đợi một thành có những nền tảng mà Đấng Thiết Lập và Đấng Xây Dựng của nó là Đức Chúa Trời.
11 Cũng bởi đức tin, Sa-ra chính mình nhận được sức mạnh cho sự thai dựng con cái, và sinh con khi tuổi đã cao. Vì bà nghĩ rằng, Đấng đã hứa là thành tín.
12 Cũng vì đó mà từ một người già yếu, sinh ra con cháu nhiều như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được.
13 Hết thảy họ đã chết trong đức tin, chưa nhận những lời hứa, nhưng trông thấy chúng từ xa, được bắt phục và vui nhận chúng; xưng mình là khách lạ và người ở nhờ trên đất.
14 Những người nói như thế, tỏ rõ rằng, họ đang mong muốn một quê hương.
15 Nếu như họ thật nhớ nó, nơi mà họ đã từ đó ra đi, thì họ vẫn nắm giữ cơ hội quay lại.
16 Nhưng giờ đây, họ khao khát sự tốt hơn là sự ở trên trời, nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn khi được gọi Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành.
17 Bởi đức tin, Áp-ra-ham đã dâng I-sác khi bị thử thách. Ông là người đã nhận lời hứa, lại dâng con một của mình,
18 về con đó có phán rằng: Trong I-sác, ngươi sẽ có một dòng dõi được gọi theo tên ngươi.
19 Ông tự nghĩ rằng, Đức Chúa Trời cũng có quyền khiến con mình sống lại từ những kẻ chết. Và như vậy, ông đã nhận lại con ấy một cách hình bóng.
20 Bởi đức tin, I-sác đã chúc phước cho Gia-cốp và Ê-sau về những sự sẽ đến.
21 Bởi đức tin, Gia-cốp lúc gần chết, đã chúc phước cho hai con của Giô-sép, và nương trên đầu gậy của mình mà thờ phượng.
22 Bởi đức tin, Giô-sép lúc gần qua đời nói về việc con cháu I-sơ-ra-ên sẽ đi ra, và truyền lệnh về hài cốt của mình. [Đi ra khỏi xứ Ê-díp-tô.]
23 Bởi đức tin, khi Môi-se mới được sinh ra, cha mẹ của ông đem giấu đi ba tháng, vì họ thấy đứa bé xinh đẹp. Họ đã không sợ mệnh lệnh của vua.
24 Bởi đức tin, Môi-se lúc đã trưởng thành, chối bỏ được gọi là con trai của con gái Pha-ra-ôn,
25 chọn thà bị hà hiếp cùng dân của Đức Chúa Trời hơn là có sự vui sướng tạm của tội lỗi.
26 Ông xem sự sỉ nhục của Đấng Ki-tô sự giàu có lớn hơn kho tàng trong xứ Ê-díp-tô. Vì ông hướng trông về sự ban thưởng.
27 Bởi đức tin, ông lìa xứ Ê-díp-tô không sợ sự thịnh nộ của vua; vì ông kiên định như nhìn thấy Đấng không thấy được.
28 Bởi đức tin, ông làm Lễ Vượt Qua và sự rảy máu, kẻo Đấng hủy diệt những con đầu lòng chạm đến họ.
29 Bởi đức tin, họ vượt ngang biển Đỏ như ngang qua chỗ cạn, nơi mà dân Ê-díp-tô thử vượt ngang thì bị nuốt mất.
30 Bởi đức tin, các tường thành của Giê-ri-cô đổ xuống, sau khi họ đi vòng quanh bảy ngày.
31 Bởi đức tin, người gái điếm Ra-háp không bị giết với những kẻ chẳng tin, vì nàng đã tiếp đón các người do thám với sự bình an.
32 Tôi sẽ còn nói gì nữa? Vì thời gian không đủ cho tôi để nói về Ghê-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên, và các tiên tri.
33 Những người đó bởi đức tin đã thắng được các nước, làm sự công chính, nhận được những lời hứa, bịt mồm những sư tử,
34 dập tắt quyền của lửa, lánh khỏi lưỡi gươm, ra khỏi bệnh tật, được mạnh mẽ, trở nên dũng mãnh trong chiến tranh, khiến lui đi các đạo binh của ngoại quốc.
35 những người đàn bà đã được những người chết của họ sống lại. Những người khác đã bị tra tấn không chịu nhận sự cứu chuộc, để họ được sự sống lại tốt hơn.
36 Những người khác đã trải qua những sự chê cười, những sự đánh đập, lại cũng chịu sự xiềng xích và sự lao tù nữa.
37 Họ đã bị ném đá. Họ đã bị cưa làm hai. Họ đã bị thử thách, bị giết bằng gươm. Họ đã lang thang trong những da chiên và những da dê, bị thiếu thốn, bị hà hiếp, bị ngược đãi.
38 Thế gian đã không xứng đáng đối với họ. Họ đã lang thang trong những đồng vắng, những núi non, những hang và những hầm của đất.
39 Hết thảy những người ấy bởi đức tin đã được làm chứng tốt, nhưng chưa nhận được lời hứa.
40 Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước những điều tốt hơn cho chúng ta, mà nếu không có chúng ta thì chúng không được trọn vẹn.

Đoạn: 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | Phần Giới Thiệu